6 đặc trưng trong văn hoá giao tiếp của người Việt Nam
Người Việt chúng ta khi bắt đầu giao tiếp với một người là thường sẽ bắt đầu với các câu hỏi về tên, tuổi, gia đình, có chồng/vợ/con chưa, bố mẹ thế nào, nghề nghiệp ra sao... Và những câu hỏi rất đỗi bình thường này với chúng ta cho đến khi giao tiếp của phương Tây du nhập. Dần dần, cách giao tiếp rất Việt này lại bị bài xích, chê bai. Vậy các bạn có hiểu hết về nguồn gốc, nguyên nhân mà có văn hoá này của chúng ta? Và chúng ta có nên thay đổi văn hoá?
Sau đây là 6 đặc trưng cơ bản của văn hoá giao tiếp và những nguyên nhân của chúng:

Vừa
thích giao tiếp, lại vừa rất rụt rè
Do văn hoá nông nghiệp nên người Việt sống phụ thuộc lẫn
nhau và rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong
cộng đồng. Chính tính cộng đồng này là nguyên nhân khiến chúng ta đặc biệt coi
trọng việc giao tiếp, và do vậy rất thích giao tiếp. Việc thích giao tiếp này
thể hiện chủ yếu ở hai đặc điểm:
- Từ góc độ của chủ thể giao tiếp thì người Việt Nam
có tính thích thăm viếng. Đã thân nhau, thì cho dù hàng ngày có gặp nhau bao
nhiêu lần chăng nữa, lúc rảnh rỗi họ vẫn tới thăm nhau. Thăm viếng không còn là
nhu cầu công việc (như ở phương Tây) mà là biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa,
có tác dụng thắt chặt thêm quan hệ.
- Với đối tượng giao tiếp thì người Việt Nam có tính
hiếu khách. Có khách đến nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dù nghèo
khó đến đâu cũng cố gắng tiếp đón chu đáo và tiếp đãi thịnh tình, dành cho
khách các tiện nghi tốt nhất, đồ ăn ngon nhất: Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi,
bởi lẽ đói năm, không bằng đói bữa. Tính hiếu khách này càng tăng lên khi ta về
những miền quê hẻo lánh, những miền rừng núi xa xôi.
Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại
có đặc tính hầu như ngược lại là rất rụt rè – điều mà những người quan sát nước
ngoài rất hay nhắc đến. Sự tồn tại đồng thời của hai tính cách trái ngược nhau
(thích giao tiếp và rụt rè) này bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt
Nam là tính cộng đồng và tính tự trị. Khi đang ở trong phạm vi của cộng đồng
quen thuộc, nơi tính cộng đồng ngự trị thì người Việt Nam sẽ tỏ ra xởi lởi,
thích giao tiếp. Còn khi ở ngoài cộng đồng, trước những người lạ, nơi tính tự
trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam sẽ tỏ ra rụt rè. Hai tính cách tưởng
như trái ngược nhau ấy ko hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong những môi
trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất, là biểu hiện
cho cách ứng xử linh hoạt của người Việt Nam.
Đặc
điểm trọng tình nghĩa
Xét về quan hệ giao tiếp, văn hoá nông nghiệp với đặc
điểm trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử:Yêu
nhau yêu cả đường đi/ ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng; Yêu nhau cau sáu bổ
ba/ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; Yêu nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau củ ấu
cũng tròn/ghét nhau quả bồ hòn cũng méo; Yêu nhau mọi việc chẳng nề/một trăm chỗ
lệch cũng kê cho bằng…

Nếu nói khái quát, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm
dương làm trọng nhưng vẫn thiên về âm hơn, thì trong cuộc sống, người Việt Nam
sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn: Một bồ cái lý không bằng một tý
cái tình. Người Việt Nam luôn coi trọng tình cảm hơn mọi thứ trên đời. Ai nhớ
mình một chút đều phải nhớ ơn, ai bảo ban một chút cũng phải tôn làm thầy –
khái niệm “thầy” được mở ra rất rộng: thầy đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy bói,
thầy cúng, thầy địa lý, thầy phù thủy…
Thói
quen thích tìm hiểu, quan sát, đánh giá… đối tượng giao tiếp
Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội,
tình trạng gia đình (bố mẹ còn hay mất, đã có vợ/chồng chưa, có con chưa, mấy
trai mấy gái…) là những vấn đề người Việt Nam thường quan tâm. Thói quen ưa tìm
hiểu này khiến cho người nước ngoài có nhận xét là người Việt Nam hay tò mò. Đặc
tính này, dù gọi bằng tên gì đi nữa – thì cũng là một sản phẩm của tính cộng đồng
làng xã mà ra.
Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm
phải quan tâm đến người khác, mà muốn quan tâm thì phải biết rõ hoàn cảnh. Mặt
khác, do lối sống trọng tình cảm, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô
riêng, nên nếu không có đủ thông tin thì không thể lựa chọn từ xưng hô cho
thích hợp được. Biết tính cách, biết người để lựa chọn từ xưng hô cho phù hợp:
Chọn mặt gửi vàng; Tùy mặt gửi lời/tùy người gửi của. Khi không được lựa chọn
thì người Việt Nam dùng chiến lược thích ứng một cách linh hoạt: Ở bầu thì
tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.

Tính
cộng đồng trong văn hoá giao tiếp của người Việt
Tính cộng đồng còn khiến người Việt Nam, dưới góc độ
chủ thể giao tiếp, có đặc điểm là trọng danh dự: Tốt danh hơn lành áo; Đói cho
sạch, rách cho thơm; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng. Danh dự gắn với
năng lực giao tiếp: Lời hay nói ra để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm; lời dở
truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt Nam mắc
bệnh sĩ diện: Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi; Đem
chuông đi đấm nước người, không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh; Một quan tiền
công không bằng một đồng tiền thưởng. Ở làng quê, thói sỹ diện thể hiện trầm trọng
qua tục lệ ngôi thứ nơi đình ttrung và tục chia phần. Do danh dự (sỹ diện), các
cụ già vẫn có thể to tiếng nhau vì miếng ăn: Một miếng giữa làng bằng một sàng
xó bếp. Lối sống trọng danh dự dẫn đến cơ chế tạo tin đồn, tạo nên dư luận như
một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng
xã.
Về
cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận
Tính tế nhị khiến cho người Việt Nam có thói quen giao
tiếp “vòng vo tam quốc”, không bao giờ mở đầu tực tiếp, đi thẳng vào đề như người
phương Tây. Truyền thống Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp là phải xấn xá cầu điền,
hỏi thăm nhà cửa ruộng vườn. Cũng để đưa đẩy tạo không khí là truyền thống miếng
trầu là đầu câu chuyện. Với thời gian, chức năng “mở đầu câu chuyện” này của
“miếng trầu” được thay thế bởi chén trà, điều thuốc lá…
Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống
trọng tình và lối tư duy trong các mối quan hệ. Nó tạo nên thói quen đắn đo cân
nhắc kỹ càng khi nói năng: Ăn có nhai, nói có nghĩ; Chó ba quanh mới nằm, người
ba năm mới nói; Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe; Người khôn
ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo… Chính sự đắn đo cân nhắc
này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán, nhưng đồng
thời giữ được sự hòa thuận, không làm mất lòng ai.

Người Việt Nam rất hay cười, nụ cười là một bộ phận
quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt; người ta có thể gặp nụ cười
Việt Nam vào cả lúc ít chờ đợi nhất. Tâm lý ưa hòa thuận khiến người Việt Nam
luôn chủ trương nhường nhịn: Một sự nhịn là chín sự lành; Chồng giận thilf vợ bớt
lời, cơm sôi nhỏ lửa có đời nào khê… Tham khảo thêm bài viết: Làm thế nào để giao tiếp tốt hơn?
Hệ
thống nghi thức lời nói rất phong phú
Trước hết, đó là sự phong phú của hệ thống xưng hô:
trong khi các ngôn ngữ phương Tây và Trung Hoa chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng
thì tiếng Việt còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng để
xưng hô, và những danh từ thân tộc này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng.
Hệ thống xưng hô này có các đặc điểm:
- Thứ nhất, có tính chất thân mật hoá (trọng tình cảm),
coi mọi người trong cộng đồng như bà con họ hàng trong một gia đình.
- Thứ hai, có tính chất cộng đồng hoá cao – trong hệ
thống này không có những từ xưng hô chung mà phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã
hội, thời gian, không gian giao tiếp cụ thể: chú khi ni, mi khi khác. Cùng là
hai người, cách xưng hô có kkhi thể hiện được hai quan hệ khác nhau: chú-con,
ông-con, bác-em, anh-tôi… Lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng; bằng
thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…)
- Thứ ba, thể hiện tính tôn ti kỹ kưỡng: người Việt
Nam xưng và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (gọi mình thì khiêm nhường,
còn gọi đối tượng giao tiếp thì tôn kính). Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi
cả hai cùng xưng là em và cùng gọi nhau là chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn
đến tục kiêng tên riêng: xưa kia chỉ gọi đến tên riêng khi chửi nhau; đặt tên
con cần nhất là không được trùng tên của những người bề trên trong gia đình,
gia tộc cũng như ngoài xã hội. Vì vậy mà người Việt Nam trước đây có tục nhập
gia vấn húy (vào nhà ai phải hỏi tên chủ nhà để khi nói nếu có động đến từ đó
thì phải nói chệch đi).
Nghi thức trong cách nói lịch sự cũng rất phong phú.
Do truyền thống tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có một từ cảm
ơn, xin lỗi chung chung cho mọi trường hợp như phương Tây. Với mỗi trường hợp
có thể có một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: Con xin chú (cảm ơn khi nhận
quà), Chị chu đáo quá(cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá (cảm ơn khi được
đon tiếp), Quý hoá quá (cảm ơn khi khách đến thăm), Anh quá khen (cảm ơn khi được
khen),Cháu được như hôm nay là nhờ cô đấy (cảm ơn khi được giúp đỡ)…
Văn hoá nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến
không gian nên người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và
theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó văn hoá phương Tây ưa hoạt động lại phân
biệt kỹ các lời chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi
sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối…
Một số suy tư về giáo dục văn hoá giao tiếp cho thế hệ tương lai
Giáo dục văn hoá giao tiếp trong nhà trường không nên
chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà trường (tất nhiên nhà trường chịu trách nhiệm
chính) mà còn phải mở rộng phạm vi từ gia đình đến xã hội. Ngay từ nhỏ, gia
đình đã có vai trò rất lớn trong việc hình thành văn hoá giao tiếp cho con
cháu. Ông, bà, cha mẹ là những thầy cô giáo đầu tiên hướng dẫn cách giao tiếp
có văn hoá cho con, cháu (đi chào, về hỏi, gọi dạ, bảo vâng một cách có lễ
phép).
Bài học vào đời ấy sẽ được tiếp tục củng cố và phát
triển thêm với những nội dung phong phú, mức độ cao hơn ở các bậc học tiếp
theo. Phải thấy rằng giáo dục văn hoá giao tiếp là không hề giới hạn bởi cấp học
nào, bởi thời gian, không gian nào mà cần phải được tiến hành ở tất cả các bậc
học, ở mọi lúc, mọi nơi, phải tiến hành một cách đồng bộ, nhất quán, tiến hành
có nội dung, có kế hoạch, có phương pháp và thật kiên trì thì mới có hiệu quả.

Nếu thiếu nhất quán sẽ xảy ra tình trạng “trống đánh
xuôi, kèn thổi ngược” thì sẽ phản tác dụng. Không thiếu trường hợp ở nhà, ở trường
thì “con ngoan, trò giỏi”, ra ngoài xã hội lại vi phạm đạo đức, pháp luật. Phải
chăng đó một phần là do tình trạng giáo dục không đồng bộ, nhất quán, thiếu sự
giám sát chặt chẽ. Vì vậy sự liên kết, phối hợp trong giáo dục là rất quan trọng.
Theo Cơ sở văn hoá Việt Nam - Trần Ngọc Thêm
Bình luận bạn đọc
Không có nhận xét nào :